* Vua Gia Long thống nhất đất nước lên ngôi năm 1802 đặt Quốc
hiệu là VIỆT NAM, đây là lần đầu tiên tên nước Việt Nam được dùng cho
nước ta, trước đó và sau này và mãi cho đến hiện nay chỉ duy nhất thời
nhà Nguyễn mới có tên nước là Việt Nam (2 chữ) còn ngoài ra thời xưa thì
Đại Việt, Đại Cồ Việt, Đại Ngu... còn thời nay thì Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa, Cộng Hòa miền nam Việt Nam hay Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chứ không có thời nào lấy Quốc hiệu tên nước là
Việt Nam như thời nhà Nguyễn.
* Quốc kỳ với nền Vàng Ba Sọc Đỏ được dùng trong hai triều đại Kháng Pháp dưới sự lãnh đạo của vua Thành Thái (1890) và vua Duy Tân (1920)
Vào tháng 8 năm 1883 đời
vua Hiệp Hòa, Pháp tấn công vào cửa Thuận An, gởi tối hậu thư bắt ép
triều đình phải ký hoà ước Quý Mùi 1883, công nhận Nam Kỳ là thuộc địa
của Pháp, còn Trung và Bắc Kỳ thuộc quyền bảo hộ của Pháp (có nghĩa là
mất tư cách độc lập về ngoại giao và quốc phòng).
Cảm thông tâm
trạng bất mãn của nhân dân thể hiện qua những tiếp xúc với các sĩ phu
ngoài hoàng thành, vua Thành Thái đã không những không thỏa mãn các đòi
hỏi của chính quyền bảo hộ (Pháp), mà còn trọng dụng nhiều nhân tài
thanh liêm và đức độ như các ông Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, với hy
vọng khôi phục và canh tân đất nước.
Năm 1890, vua Thành Thái
xuống chiếu thay đổi quốc kỳ chữ Hán (Long Tỉnh Kỳ) bằng quốc kỳ mới.
Lá cờ nền Vàng Ba Sọc Đỏ lần đầu tiên được cấu tạo và được dùng làm cờ
nước và được đặt tên là ĐẠI NAM QUỐC KỲ (SV Nguyễn Phương Uyên đã dùng
lá cờ này và còn cẩn thận ghi rỏ: ĐẠI NAM QUỐC KỲ).Có thể nói Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ - gọi tắt là "Cờ Vàng" - là lá "quốc kỳ" đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt Nam, vì nó hàm chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất của lãnh thổ Việt.
Sự kiến tạo lá quốc kỳ mới ấy có nhiều ý nghĩa vô cùng quan trọng:
- Thể hiện ý chí đấu tranh, bác bỏ hiệp ước Quý Mùi, "chia để trị" của thực dân Pháp, đã tao ra tình trạng Nam Kỳ thuộc địa, Trung Bắc kỳ bảo hộ.
- Xác quyết sự toàn vẹn lãnh thổ của Đại Nam Quốc, ba miền đều có tư thế chính trị giống nhau và bất khả phân trong nền tảng màu Vàng của dân tộc Việt ở phương Nam.
- Nêu cao tinh thần "quốc gia dân tộc", bằng cách đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu.
Chính vì các ý nghĩa trên mà lá cờ Vàng còn được mệnh danh là cờ "Quốc Gia".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét